F

Header Ads

test

Kinh Báo Hiếu Phụ Mẫu



 KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU

(Vị chủ lể thắp 3 cây hương qùy ngay thẳng, cầm hương ngang trán, niệm lớn bài cúng hương).

CÚNG HƯƠNG TÁN PHẬT

Nguyện đem lòng thành kính,

Gởi theo đám mây hương.

Phưởng phất khắp mười phương.

Cúng dường ngôi Tam Bảo,

Thề trọn đời giữ Đạo,

Theo tự tánh làm lành,

Cùng Pháp giới chúng sinh.

Cầu Phật từ gia hộ,

Tâm Bồ Đề kiên cố,

Xa bể khổ nguồn mê,

Chóng quay về bờ Giác. 

(Xá rồi đọc tiếp bài kệ Tán Phật)

TÁN PHẬT

Đấng Pháp Vương vô thượng,

Ba cõi chẳng ai bằng,

Thầy dạy khắp trời, người,

Cha lành chung bốn loại,

Quy y tròn một niệm,

Dứt sạch nghiệp ba kỳ,

Xưng dương cùng tán thán,

Ức kiếp không cùng tận. 

KỲ NGUYỆN

Đệ tử ......... hôm nay nhân mùa báo hiếu, có chút duyên lành, dâng hương kính lạy mười phương tam thế Phật, Pháp, Thánh, Hiền, Tăng. Đệ tử chí thành tụng trì kinh chú, xưng tán Hồng danh, niệm Phật công đức: chuyên vì kỳ siêu hương linh ..... cùng cửu huyền thất tổ nội ngoại tôn thân, cha mẹ nhiều đời và hiện tại của đệ tử cùng pháp giới chúng sinh sớm rõ đường lành, thoát vòng mê muội, ra khỏi u đồ siêu sinh Lạc Quốc. Ngưỡng mong oai đức từ bi xót thương tiếp độ. Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo tác đại chứng minh.

(Đứng dậy cắm hương lên lư rồi vị chủ lể chắp tay đứng thẳng và niệm)

QUÁN TƯỞNG

Phật chúng sanh tánh thường không tịch

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn

Lưới Đế Châu ví Đạo Tràng Mười Phương Phật Bảo Hào Quang sáng ngời

Trước Bảo Tọa thân con ảnh hiện

Cúi đầu xin đảnh lễ Quy Y. 


CHÍ TÂM ĐẢNH LỄ:

1- Nam mô tận hư không biến pháp giới quá hiện vị lai, thập phương chư Phật, tôn Pháp, Hiền, Thánh Tăng thường trụ Tam Bảo (1 lạy) 

2- Nam mô Ta Bà Giáo Chủ Điều Ngự Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai hạ sanh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Đạo Tràng Hội Thượng Phật Bồ Tát, (1 lạy) 

3- Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật, Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. (1lạy) 

Kim lư vừa bén chiên đàn,

Khắp xông pháp giới đạo tràng mười phương,

Hiện thành mây báu kiết tường,

Chư phật rõ biết ngọn hương chí thành,

Pháp thân toàn thể hiện tiền,

Chứng minh hương nguyện phúc liền ban cho. 

Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát (3 lần) 

Cành dương nước tịnh,

Rưới khắp ba ngàn,

Tánh không tám đức lợi trần gian,

Pháp giới rộng thênh thanh,

Trừ diệt tai nàn, Lửa dữ hóa sen vàng. 

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát ma ha tát. (3 lần) 

PHẬT THUYẾT

KINH BÁO HIẾU PHỤ MẪU

Một thuở nọ Thế Tôn an trụ

Xá vệ thành Kỳ thụ Viên trung

Chư Tăng câu hội rất đông

Tính ra tới số hai muôn tám ngàn

Lại cũng có các hàng Bồ Tát

Hội tại đây đủ mặt thường thường

Bấy giờ Phật mới lên đường

Cùng hàng đại chúng Nam phương tiến hành

Đáo bán lộ đành rành mắt thấy

Núi xương khô bỏ đấy lâu đời

Thế Tôn bèn vội đến nơi

Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng. 

Đức A Nan tủi lòng ái ngại

Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương?

Vội vàng xin Phật dạy tường

Thầy là Từ Phụ ba phương bốn loài

Ai ai cũng kính thầy dường ấy

Cớ sao thầy lại lạy xương khô? 

Phật rằng: trong các môn đồ

Ngươi là đệ tử đứng đầu dày công

Bởi chưa biết đục trong cho rõ

Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu:

Đống xương dồn dập bấy lâu

Cho nên trong đó biết bao cốt hài

Chắc cũng có ông bà cha mẹ

Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sanh

Luân hồi sanh tử, tử sanh

Lục thân đời trước thi hài còn đây. 

Ta lễ bái kính người tiền bối

Và ngậm ngùi vì nhớ kiếp xưa

Đống xương hổn tạp chẳng vừa

Không phân trai gái bỏ bừa khó coi.

Ngươi chịu khó xét soi cho kỹ

Phân làm hai bên nữ bên nam

Để cho phân biệt cốt phàm

Không còn lộn lạo nữ nam chất chồng. 

Đức A Nan trong lòng tha thiết

Biết làm sao phân biệt khỏi sai

Ngài bèn xin Phật chỉ bày

Vì khó chọn lựa gái trai lúc nầy.

Còn sanh tiền dễ bề sắp đặt

Cách đứng đi ăn mặc phân minh

Chớ khi rả xác tiêu hình

Xương ai như nấy khó nhìn khó phân. 

Phật mới bảo A Nan nên biết

Xương nữ nam phân biệt rõ ràng

Đàn ông xương trắng nặng hoằng

Đàn bà xương nhẹ đen thâm dễ nhìn.

Ngươi có biết cớ chi đen nhẹ?

Bởi đàn bà sanh đẻ mà ra

Sanh con ba đấu huyết ra

Tám hộc bốn đấu sữa hòa nuôi con

Vì cớ ấy hao mòn thân thể

Xương đàn bà đen nhẹ hơn trai. 

A Nan nghe vậy bi ai

Xót thương cha mẹ công dày dưỡng sanh

Bèn cầu Phật thi ân dạy bảo

Phương pháp nào báo hiếu song thân ?

Thế Tôn mới bảo lời tằng:

Vì ngươi ta sẽ phân trần khá nghe.

Thân đàn bà nhiều bề cực nhọc

Sanh đặng con thập nguyệt cưu mang

Tháng đầu thai đậu tợ sương

Mai chiều gìn giữ sợ tan bất thường

Tháng thứ nhì dường như sữa đặc

Tháng thứ ba như cục huyết ngưng

Bốn tháng đã tượng ra hình

Năm tháng ngũ thể hiện sinh rõ ràng

Tháng thứ sáu lục căn đều đủ

Bảy tháng thì đủ bộ cốt xương

Lại thêm đủ lỗ chân lông

Cọng chung đến số tám muôn bốn ngàn

Tháng thứ tám hoàn toàn tạng phủ

Chín tháng thì đầy đủ vóc hình

Mười tháng thì đến kỳ sinh

Nếu con hiếu thuận xuôi mình ra luôn

Bèn ngỗ ngịch làm buồn thân mẫu

Nó vẫy vùng đạp quấy lung tung

Làm cho cha mẹ hãi hùng

Sự đau sự khổ không cùng tỏ phân

khi sản xuất muôn phần an lạc

Cũng ví như được bạc được vàng

Thế Tôn lại bảo A Nan:

Ơn cha nghĩa mẹ mười phần phải tin

Điều thứ nhất gữi gìn thai giáo

Mười tháng trường châu đáo mọi bề

Thứ hai sanh đẻ gớm ghê

Chịu đau chịu khổ mỏi mê trăm phần

Điều thứ ba thâm ân nuôi dưỡng

Cực đến đâu bền vững chẳng lay

Thứ tư ăn đắng nuốt cay

Để dành bùi ngọt đủ đầy cho con

Điều thứ năm lại còn khi ngủ

Ướt mẹ nằm khô ráo phần con

Thứ sáu bú sữa nhai cơm

Miễn con no ấm chẳng nhờm chẳng ghê

Điếu thứ bảy không chê ô uế

Giặt đồ dơ của trẻ không phiền

Thứ tám chẳng nỡ chia riêng

Nếu con đi vắng cha phiền mẹ lo

Điều thứ chín miễn con sung sướng

Dầu phải mang nghiệp chướng cũng cam

Tính sao có lợi thì làm

Chẳng màng tội lỗi bị giam bị cầm

Điều thứ mười chẳng ham trau chuốt

Dành cho con các cuộc thanh nhàn

Thương con như ngọc như vàng

Ơn cha nghĩa mẹ sánh bằng Thái sơn. 

Phật lại bảo A Nan nên biết:

Trong chúng sanh tuy thiệt phẩm người

Mười phần mê muội cả mười

Không tường ơn trọng đức dày song thân

Chẳng kính mến quên ơn trái đức

Không xót thương dưỡng dục cù lao

Ấy là báo hiếu mặc giao

Vì những người ấy đời nào nên thân.

Mẹ sanh con cưu mang mười thánh

Cực khổ dường gánh ngặng trên vai

Uống ăn chẳng đặng vì thai

Cho nên thân thể hình hài kém suy

Khi sanh sản hiểm nguy chi xiết

Sanh đặng rồi tinh huyết dầm dề

Ví như thọc huyết trâu dê

Nhất sanh thập tử nhiều bề gian nan

Con còn nhỏ phải lo săn sóc

Ăn đắng cay bùi ngọt phần con

Phải tắm phải giặt rửa trôn

Biết rằng dơ dáy mẹ không ngại gì

Nằm phía ướt con nằm phía ráo

Sợ cho con ướt áo ướt chăn

Hoặc khi ghẻ chóc khắp thân

Ắt con phải chịu trăm phần thảm thương

Trọn ba năm bú nương sữa mẹ

Thân gầy mòn nào nệ với con

Khi con vừa được lớn khôn

Cha mẹ dạy bảo cho con vỡ lòng

Cho đi học mở thông trí tuệ

Dựng vợ chồng có thế làm ăn

Ước mong con được nên thân

Dầu cho cha mẹ cơ bần quản chi

Con đau ốm tức thì lo chạy

Dầu tốn hao đến mấy cũng đành

Khi con căn bệnh đặng lành

Thì cha mẹ mới an thần định tâm. 

Công dưỡng dục sánh bằng non biển

Cớ sao con chẳng biết ơn nầy?

Hoặc khi lầm lỗi bị rầy

Chẳng tuân thì chớ lại bày ngỗ ngang

Hỗn cha mẹ phùng mang trợn mắt

Khinh trưởng huynh nộ nạt thê nhi

Bà con chẳng kể ra chi

Không tuân sư phụ lễ nghi chẳng tường

Lời dạy bảo song đường không kể

Tiếng khuyên răn anh chị chẳng màng

Trái ngang chống báng mọi đàng

Ra vào lui tới mắng càn người trên

Vì lỗ mãng tính quen càn bướng

Chẳng kể lời trưởng thượng dạy răn.

Lớn lên theo thói hung hăng

Đã không nhẫn nhịn lại càng hành hung

Bỏ bạn lành theo cùng chúng dữ

Nết tập quen làm sự trái ngang

Nghe lời dụ dỗ quân hoang

Bỏ cha bỏ mẹ trốn sang quê người.

Trước còn tập theo thời theo thế

Thân lập thân tìm kế sanh nhai

Hoặc đi buôn bán kiếm lời

Hoặc vào quân lính với đời lập công

Vì ràng buộc đồng công mối nợ

Hoặc trở ngăn vì vợ vì con

Quên cha quên mẹ tình thâm

Quên xứ quên sở lâu năm không về. 

Ấy là nói những người có chí

Chớ phần nhiều du hiù mà thôi

Sau khi phá hết của rồi

Phải tìm phương kế kiếm đôi đồng xài

Theo trộm cướp hoặc là bài bạc

Phạm tội hình tù rạc phải vương

Hoặc khi mang bịnh giữa đường

Không người nuôi dưỡng bỏ thân ngoài đồng.

Hay tin dữ bà con cô bác

Cùng mẹ cha xao các buồn rầu

Thương con than khóc âu sầu

Có khi mang bịnh đui mù vấn vương

Hoặc bịnh nặng vì thương quá lẽ

Phải bỏ mình làm quỉ giữ hồn

Hoặc nghe con chẳng lo lường

Trà đình tửu điếm phố phường ngao du

Cứ mãi miết với đồng bất chính

Chẳng mấy khi thần tỉnh mộ khan

Làm cho cha mẹ than van

Sanh con bất hiếu phải mang tiếng đời.

Hoặc cha mẹ đến hồi già yếu

Không ai nuôi thiếu thốn mọi điều

Ốm đau đói rách kêu riêu

Con không cấp dưỡng bỏ liều chẳng thương. 

Phận con gái còn nương cha mẹ

Thì có lòng hiếu đễ thuận hòa

Cần lao phục dịch trong nhà

Dễ sai dễ khiến hơn là nam nhi

Song đến lúc tùng phu xuất giá

Lo bên chồng chẳng sá bên mình

Trước còn lai vãng đến thăm

Lần lần tẻ lạnh biệt tăm biệt nhà

Quên dưỡng dục song thân ân trọng

Không nhớ công mang nặng đẻ đau

Chẳng lo báo bổ cù lao

Làm cho cha mẹ buồn rầu thảm thay

Nếu cha mẹ la rầy quở mắng

Trở sanh lòng hờn giận chẳng kiêng

Chớ chi chồng đánh liên miên

Thì cam lòng chịu chẳng phiền chẳng than. 

Tội bất hiếu lưởng ban nam nữ

Nói không cùng nghiệp dữ phải mang

Nghe Phật chỉ rõ mọi đàng

Trong hàng đại chúng lòng càng thảm thay.

Gieo xuống đất lấy cây lấy củi

Đập vào mình vào mũi vào hông

Làm cho các lỗ chân lông

Thảy đều rướm máu ướt đầm cả thân

Đến hôn mê tâm thần bất định

Một giây lâu mới tỉnh than rằng:

Bọn con quả thật tội nhân

Xưa nay chẳng rõ không hơn người mù

Nay tỏ ngộ biết bao lầm lạc

Ruột gan dường như nát như tan

Tội tình khó nỗi than van

Làm sao trả đặng muôn ngàn ân sâu. 

Trước Phật tiền ai cầu trần tố

Xin Thế Tôn mẫn cố bi lân

Làm sao báo đáp thù ân

Tỏ lòng hiếu thuận song thân của mình?

Phật bèn dùng phạm thanh sáu món

Phân tỏ cùng đại chúng lắng nghe

Ân cha nghĩa mẹ nặng nề

Không phương báo đáp cho vừa sức đâu

Ví có người ân sâu dốc trả

Cõng mẹ cha tất cả hai vai

Giáp Tu Di núi chẳng sai

Đến trăm ngàn kiếp ân kia chưa vừa.

Ví có người gặp cơn đói rét

Nuôi song thân dâng hết thân nầy

Xương nghiền thịt nát phân thây

Trải trăm ngàn kiếp ân đây chưa đồng.

Ví có người vì công sanh dưỡng

Tự tay mình khoét thủng song ngươi

Chịu thân mù tối như vầy

Đến trăm ngàn kiếp ơn nầy thấm đâu?

Ví có người cầm dao thật bén

Mổ bụng ra rút hết tâm can

Huyết ra khắp đất chẳng than

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân đâu bằng.

Ví có ngưới dùng ngàn mũi nhọn

Đâm vào mình bất luận chỗ nào

Tuy là sự khó biết bao

Trải trăm ngàn kiếp không sao đáp đền.

Ví có người vì công dưỡng dục

Tự treo mình cúng Phật thế đèn

Cứ treo như vậy trọn năm

Trải trăm ngàn kiếp ân thâm chưa đền.

Ví có người xương nghiền ra mỡ

Hoặc dùng dao chặt bửa thân mình

Xương tan thịt nát chẳng phiền

Đến trăm ngàn kiếp ơn trên chưa đồng.

Ví có người vì công dưỡng dục

Nuốt sắc nóng thấu ruột thấu gan

Làm cho thân thể tiêu tan

Đến trăm ngàn kiếp thâm ân chưa đền.

Nghe Phật nói thảy đều kinh khủng

Giọt lệ tràn khó nỗi cấm ngăn

Đồng thanh bạch Phật lời rằng:

Làm sao trả đặng ân thâm song đường?

Phật mới bảo các hàng Phật Tử !

Phải lắng nghe ta chỉ sau nầy

Các ngươi muốn đáp ân dày

Phải nên biên chép kinh đây lưu truyền

Vì cha mẹ trì chuyên phúng tụng

Cùng ăn năn những tội lỗi xưa

Cúng dường Tam Bảo sớm trưa

Cùng là tu phước chẳng chừa món chi.

Rằm tháng Bảy đến kỳ Tự Tứ

Mười phương Tăng đều dự lễ nầy

Sắm sanh lễ vật đủ đầy

Chờ giờ câu hội đặt bày cúng dâng. 

Đặng cầu nguyện song đường trường thọ

Hoặc sanh về Tịnh độ an nhàn

Ấy là báo đáp thù ân

Sanh thành dưỡng dục song thân của mình

Mình cầnphải tụng kinh lạy Phật

Pháp Tam Qui bậc nhất giới trai. 

Những lời ta dạy hôm nay

Các ngươi nhớ lấy từ đây phụng hành.

Được như vậy mới là khỏi tội

Bằng chẳng thì ngục tối phải sa

Trong năm đại tội kể ra

Bất hiếu thứ nhất thật là trọng thay

Sau khi chết bị đày vào ngục

Ngũ vô gián cũng gọi a tỳ

Ngục nầy trong núi thiết vi

Vách phên bằng sắt vây quanh bốn bề

Trong ngục nầy hàng ngày lửa cháy

Đốt tội nhân hết thảy thành than

Có lò nấu sắt cho tan

Rót vào trong miệng tội can hành hình

Vì bất hiếu nên mình thụ khổ

Lột thịt ra máu đổ tràn lan

Lại có chó sắt, rắn gan

Phun ra khói lửa đốt đoàn tội nhân.

Ở trong ngục có giường bằng sắt

Bắt tội nhân nằm khắp đó xong

Rồi cho một ngọn lửa hồng

Nướng quay chúng nó da phồng thịt thau

Móc bằng sắt, thương, đao, gươm giáo

Trên không trung đổ tháo như mưa

Gặp ai chém nấy chẳng chừa

Làm cho thân thể nát nhừ như tương.

Những hình phạt vô phương kể hết

Mỗi ngục đều có cách trị riêng

Như là xe sắt phân thây

Chim ưng mổ bụng, trâu cày lưỡi le

Nếu mà đặng chết liền đã đỡ

Vì nghiệp duyên không nỡ hành thân

Ngày đêm chết sống muôn lần

Đến trăm ngàn kiếp không ngừng một giây. 

Sự hành phạt tại a tỳ ngục

Rất nặng nề ngỗ nghịch song thân

Chúng ngươi đều phải ân cần

Thừa hành các việc phân trần khoản trên.

Nhất là phải kinh nầy in chép

Truyền bá ra cho khắp đông tây

Như ai chép một quyển nầy

Ví bằng đặng thấy một vì Thế Tôn. 

Nếu in được ngàn muôn quyển ấy

Thì cũng bằng thấy Phật vạn thiên

Do theo nguyện lực tùy duyên

Chư Phật ủng hộ y như sở nguyền

Cha mẹ đặng xa miền khốc lãnh

Lại hóa sanh về cảnh thiên cung. 

Khi lời Phật giảng vừa xong

Khắp trong Tứ-chúng một lòng kính vâng

Lại phát nguyện thà thân này nát

Ra bụi tro muôn kiếp chẳng nài

Dầu cho kéo lưỡi trâu cày

Đến trăm ngàn kiếp lời thầy không quên

Ví như bị bách thiên đao kiếm

Khắp thân này đâm chém phanh thây

Hoặc như lưới trói thân này

Trải trăm ngàn kiếp lời thầy chẳng sai.

Dẫu thân này bị cưa bị chặt

Phân chia ra muôn đoạn rã rời

Đến trăm ngàn kiếp như vầy

Chúng con cũng chẳng trái lời thầy khuyên. 

Đức A-Nan kiền thiền đảnh lễ

Cầu Thế-Tôn đặt để hiệu kinh

Ngày sau truyền bá chúng-sinh

Dễ bề phúng tụng, cần chuyên tu hành.

Phật mới bảo A-Nan nên biết

Quyển kinh này quả thiệt cao xa

Đặt tên "Báo Hiếu Mẹ Cha"

Cùng là "Ân Trọng" thật là chân kinh

Các ngươi phải giữ gìn châu-đáo

Đặng đời sau y giáo phụng hành

Sau khi Phật dạy rành rành

Bốn hàng Phật-tử rất mừng rất vui.

Thảy một lòng vâng theo lời Phật 

Và kính thành tin chắc vẹn truyền,

Đồng nhau trở lại Phật tiền,

Nhất tâm đảnh lễ rồi liền lui ra. 

(3 tiếng chuông rồi tụng Bát-nhã)

BÁT-NHÃ BA-LA MẬT-ĐA TÂM KINH:

Tâm trí-tuệ thanh thanh rộng lớn,

Sáng trong ngần chẳng bợn mảy trần,

Lầu lầu một tính thiên chân,

Bao trùm muôn loại chẳng phân thánh phàm,

Vận tâm ấy lặng trong sáng suốt,

Cõi bờ kia một bước đến nơi,

Trải lòng tròn đủ xưa nay,

Công thành quả chứng tỏ bày đích đang.

Hàng Bồ-tát danh Quán-Tự-Tại,

Khi tham thiền vô-ngại đến trong,

Thẩm vào trí-tuệ mở thông,

Soi thấy năm uẩn đều không có gì,

Độ tất cả không chi khổ ách. 

Trong thức tâm hiện cảnh sắc ra

Sắc, Không chung ở một nhà

Không chẳng khác sắc, sắc nào khác không

Ấy sắc tướng cũng đồng không tướng

Không tướng y như tượng sắc kia

Thọ, Tưởng, Hành, Thức phân chia

Cũng lại như vậy đồng về chân không

Tòa sắc-tướng nhân ông tạm đó

Các pháp kia tướng nọ luống trơn

Chẳng sanh chẳng dứt thường chơn

Chẳng cấu chẳng tịnh chẳng sờn chẳng thêm. 

Cớ ấy nên cõi trên không giới

Thể làu làu vô ngại thường chân

Vốn không ngũ-uẩn ấm thân

Sáu căn chẳng có sáu trần cũng không

Thấy rỗng không mà không nhãn giới

Biết hoàn toàn thức giới cũng không

Tánh không sáng suốt đại đồng

Vô minh chẳng có mựa hồng hết chi

Vẫn không có thân gì già chết

Huống chi là hết chết già sao?

Tứ-đế cũng chẳng có nào

Không chi là trí có nào đắc chi

Do vô sở đắc ly tất cả

Nhân pháp kia đều xả nhị không

Vận lòng trí-tuệ linh thông

Bờ kia mau đến tâm không ngại gì

Không quái ngại có chi khủng bố

Tức xa lìa mộng tưởng đảo điên

Tâm không rốt-ráo chu viên

Niết-bàn quả chứng chân nguyên hoàn-toàn. 

Tam Thế Phật, Y đàng Bát-nhã

Đáo Bồ-Đề chứng quả chánh chân

Cho hay Bát-nhã là hơn

Pháp-môn tối thắng cõi chân mau về.

Thiệt thần-chú linh tri đại lực

Thiệt thần-chú đúng bực quang-minh

Ấy chú tối thượng oai linh

Ấy chú vô đẳng thinh thinh oai thần

Trừ tất cả nguyên-nhân các khổ

Thức tỉnh lòng giác-ngộ vô sư

Thiên-nhiên chân-thiệt bất hư

Án-lam Thần-chú Chân-Như thuyết rằng:

Yết-đế, Yết-đế, Ba-la Yết-đế, Ba-la Tăng Yết-đế, Bồ-đề Tát-bà-ha.(đọc 3 lần) 

CHÚ VÃNG SANH

Nam mô A di đa bà dạ. Đa tha dà đá dạ. Đá địa dạ tha. A di rị đô bà tỳ. A di rị đá tất đam bà tỳ. A di rị đá tì ca lan đế, A di rị đá tỳ ca lan đá. Dà di nị dà dà na, Chỉ đá ca lệ ta bà ha. (3 lần) 

Tướng Phật Di-đà sáng chẳng qua

Sắc vàng sáng ánh tốt hơn hoa

Bạch hào chiếu diệu năm non cả

Thanh nhãn trong ngời bốn biển xa,

Trong sáng hóa ra vô số Phật

Hiện hàng Bồ-tát cũng hằng sa.

Lợi sinh bốn tám lời Từ-nguyện,

Chín phẩm liên-đài độ chúng ta. 

Nam mô Tây-phương Cực-Lạc thế-giới, Đại-từ Đại-bi tiếp dẫn đạo-sư A-Di-Đà Phật. 

Nam-mô A-Di-Đà Phật. (1 hay 3 tràng tùy ý) 

Nam-mô Quán-Thế-Âm Bồ-Tát. (3 lần) 

Nam-mô Đại-Thế-Chí Bồ-Tát. (3 lần) 

Nam-mô Địa-Tạng-Vương Bồ-Tát 3 lần) 

Nam-mô Đại-Hiếu Mục-Kiền-Liên Bồ-tát. (3 lần) 

Nam-mô Thanh-Tịnh Đại-Hải Chúng Bồ-Tát. (3 lần) 

S Á M N G U Y Ệ N

NGUYỆN CẦU CHƯ PHẬT MƯỜI PHƯƠNG

ĐỘ CHO BÁ TÁNH THẾ THƯỜNG PHÁT TÂM

ĐẠO MẦU VÔ THƯỢNG THẬM THÂM

KHẮP CÙNG NAM NỮ GIEO MẦM HIỀN LƯƠNG

CẦU CHO GIA QUYẾN AN KHƯƠNG

NƯỚC NHÀ THẠNH VƯỢNG DÂN THƯỜNG BÌNH YÊN. 

NGUYỆN CẦU THẤT TỔ CỬU HUYỀN

ÔNG BÀ CHA MẸ HIỆN TIỀN QUÁ VONG

KẺ CÒN NGƯỜI MẤT THẢY ĐỒNG

THÁC VỀ CỰC LẠC SỐNG CÒN TRƯỜNG SANH

HIỆN TIỀN QUYẾN THUỘC AN LÀNH

HAI BÊN THÂN TỘC CHÚNG SANH THẢY LÀ

PHƯỚC DUYÊN ĐẦY ĐỦ TAM ĐA

ĐỒNG NHAU LỢI LẠC NHÀ NHÀ AN VUI.

BỐN MÙA HOA QUẢ TỐT TƯƠI

KHẮP TRONG THIÊN HẠ SỐNG VUI HÒA BÌNH

NGUYỆN CHO PHÁP GIỚI CHÚNG SINH

TU VỀ CÕI PHẬT QUANH MINH AN NHÀN.

NAM MÔ ĐẠI HIẾU, ĐỊA TẠNG

CHỨNG MINH ĐỆ TỬ LINH-SAN MAU VỀ. 

H Ồ I H Ư Ớ N G:

Kỳ siêu công-đức hạnh thù-thắng,

Phúc quý vô-biên đều Hồi-Hướng,

Khắp nguyện chúng-sinh trong pháp giới,

Chóng sinh về cõi Phật Di-Đà. 

Nguyện tiêu ba chướng dứt phiền-não,

Nguyện được trí-tuệ thật hiểu rõ,

Khắp nguyện tội chướng đều tiêu mất,

Đời đời thường hành đạo Bồ-tát. 

Nguyện sinh về Tịnh-độ phương Tây,

Chín phẩm sen vàng là cha mẹ,

Hoa nở thấy Phật ngộ vô-sinh,

Bồ-tát bất-thoái làm bạn lữ. 

P H Ụ C N G U Y Ệ N

Phật-từ quảng-đại, cảm ứng vô sai, quang giáng đạo tràng, chứng minh công-đức. Kim thời đệ tử... cung tựu Phật tiền, phúng tụng kinh chú, xưng tán hồng-danh, tập thử công-đức, chuyên vì kỳ nguyện: thất-tổ cửu huyền, đa sinh phụ-mẫu quá khứ, thất thế phụ-mẫu sinh thành, thượng chí cao tằng tổ khảo, cao tằng tổ-tỷ, hạ chí tôn điệt tằng huyền, thúc bá đệ huynh, cô di tỷ muội; cập tứ sinh lục đạo, thập loại cô hồn, oan gia trái chủ, cừu thù chấp đối, chiến sĩ trận vong, đồng bào tử nạn, nhất thiết viễn cận đẳng chư chân linh.

Duy nguyện: chân linh bất muội, ngao du mã não chi giai, bổn tính chiếu nhiên, từ bộ kim thành chi lộ, bạch liên hoa nội, thường văn Bát nhã chi âm, bích ngọc trì trung, đản thính vô sinh chi ngữ. 

Phổ nguyện: hiện tiền đệ tử hiếu tâm kiên cố, đạo hạnh tinh chuyên, pháp giới nhân thiên, tề thành Phật đạo. 

TAM TỰ QUY

Tự quy y Phật, đương nguyện chúng sanh thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm. (1 lạy) 

Tự quy y Pháp, đương nguyện chúng sanh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. (1 lạy) 

Tự quy y Tăng, đương nguyện chúng sanh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. (1 lạy) 

HỒI HƯỚNG

Nguyện đem công đức nầy,

Hướng về khắp tất cả,

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật đạo.

No comments